Thứ Bảy, 23/11/ 2024

Chào mừng đến với trang thông tin Trung tâm Y tế Thị xã Hoài Nhơn!

Hưởng ứng Tuần lễ thế giới nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) năm 2023 từ ngày 01/8/2023 đến ngày 07/8/2023 với chủ đề “Tăng cường hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ tại nơi làm việc”.

                 Sữa mẹ: là sữa được tiết ra từ bầu vú của mẹ, chứa nhiều chất dinh dưỡng và kháng thể tự nhiên mà không một loại dinh dưỡng nào có được. Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (The American Academy of Pediatrics – AAP) và Tổ chức Y tế Thế giới (The World Health Organization – WHO) khuyến khích mẹ nên nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 4-6 tháng đầu đời, sau đó tiếp tục cho trẻ bú mẹ trong vòng 1 năm hoặc lâu hơn, kết hợp với chế độ ăn dặm phù hợp để trẻ khỏe mạnh, có nền tảng phát triển toàn diện.

               Nuôi con bằng sữa mẹ là gì?

           Nuôi con bằng sữa mẹ là việc cho bé bú hoàn toàn bằng sữa được tiết ra từ vú mẹ trong suốt 6 tháng đầu đời, mẹ không cần bổ sung thêm cho trẻ bất kỳ loại thực phẩm nào khác, kể cả việc uống nước.

         Khi trẻ từ 6 tháng tuổi, mẹ vẫn tiếp tục cho bé bú sữa mẹ kết hợp với việc ăn dặm đầy đủ các nhóm thực phẩm để tăng cường dinh dưỡng.

           Hiểu đúng về các hình thức của sữa mẹ

Để có thể nuôi con bằng sữa mẹ hiệu quả, đúng cách, khoa học, trước tiên mẹ cần biết rõ các dạng khác nhau của sữa mẹ.

  1. Sữa non

Sữa non là sữa đầu tiên mà trẻ sơ sinh nhận được khi bắt đầu bú mẹ. Sữa non thường có màu vàng, chất sữa đặc hơn so với sữa trưởng thành.

Giai đoạn sản xuất sữa non bắt đầu trong thời kỳ mang thai và kéo dài trong vài ngày sau khi phụ nữ sinh con. Sữa non chứa nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là protein và các hợp chất tăng cường miễn dịch để cung cấp năng lượng và hỗ trợ cho em bé trong những ngày đầu tiên chào đời.

  1. Sữa chuyển tiếp

Khi hết sữa non thì tuyến sữa bắt đầu tiết ra sữa chuyển tiếp. Loại sữa mẹ này sẽ chỉ xuất hiện từ 5-15 ngày, tính từ lúc sữa non kết thúc. Càng về gần cuối chu kỳ tiết sữa chuyển tiếp, thành phần dinh dưỡng của sữa này càng tiết nhiều hơn và dần giống với sữa trưởng thành.

  1. Sữa trưởng thành

Sữa trưởng thành có protein chỉ bằng một nửa sữa non nhưng lại giàu chất béo hơn. Sữa trưởng thành sẽ xuất hiện khi sữa chuyển tiếp kết thúc.

  1. Sữa đầu bữa

Sữa đầu bữa là sữa được tiết ra trong đầu bữa bú của bé, thường có màu trắng trong và chứa nhiều đường, đạm, nước hơn so với sữa cuối bữa.

  1. Sữa cuối bữa

     Sữa cuối bữa là loại sữa được tiết ra vào cuối bữa bú của trẻ, có màu trắng đục do chứa nhiều chất béo hơn sữa đầu bữa.

      Như vậy, tùy nhu cầu mà mẹ nên cho bé bú sữa đầu bữa và sữa cuối bữa để đảm bảo con hấp thu đầy đủ dưỡng chất.

    Vì sao cần cho bé bú mẹ thường xuyên?

    Sữa mẹ được “sản xuất” như thế nào? Theo bản năng, cơ thể của người mẹ sẽ tự động tạo ra sữa cho dù bé có bú hay không. Song, thường sau khoảng tuần đầu tiên, việc sản xuất sữa nhiều hay ít sẽ phụ thuộc vào nhu cầu bú của trẻ. Do đó, muốn thiết lập và duy trì nguồn sữa lành mạnh, các bà mẹ cần cho con bú thường xuyên.

     Việc cho con bú bằng sữa mẹ thường xuyên sẽ kích thích các dây thần kinh ở vú để gửi thông điệp đến tuyến yên trong não của mẹ. Tuyến yên tiết ra các hormone oxytocin và prolactin. Hormone prolactin có tác động đến tuyến sữa để tạo ra sữa mẹ, còn hormone oxytocin lại có nhiệm vụ báo hiệu phản xạ tiết sữa bằng cách làm cho các phế nang co lại và ép sữa mẹ vào ống dẫn sữa để cho bé bú.

    Nếu mẹ cho con bú sau 1-3 giờ (ít nhất 8-12 lần một ngày), mức prolactin sẽ được tăng lên, từ đó kích thích việc sản xuất sữa nhiều hơn. Giai đoạn tạo sữa hoàn toàn này bắt đầu vào khoảng ngày thứ 9 sau khi sinh và kéo dài cho đến khi kết thúc thời kỳ cho con bú.

    Nuôi con bằng sữa mẹ đúng cách là nên cho bé bú mẹ đến khi nào?

      Mẹ nên cho trẻ bú đến khi nào mẹ cảm thấy trẻ có thể sẵn sàng cho việc cai sữa. Không có khuyến nghị về thời gian cho bé bú đến khi nào, song Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyên, các bà mẹ nên cho con bú hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu đời, sau đó tiếp tục cho con bú cùng với bổ sung thực phẩm thích hợp cho đến 2 tuổi hoặc sau đó.

 

       Lợi ích khi nuôi con bằng sữa mẹ

        Một số lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ có thể kể đến như:

  1. Đối với trẻ

        Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ là mang đến cho trẻ nguồn dinh dưỡng tuyệt vời nhất bao gồm:

       Cung cấp dinh dưỡng: Sữa mẹ có sự kết hợp gần như hoàn hảo giữa vitamin, protein và chất béo. Đây là nguồn dinh dưỡng lý tưởng để cung cấp cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ

      Cung cấp kháng thể: Sữa mẹ có chứa các kháng thể giúp tăng cường hệ miễn dịch cho trẻ để chống lại vi rút và vi khuẩn. Vì thế, nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh hen suyễn hoặc dị ứng ở trẻ. Ngoài ra, trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, không kèm theo sữa công thức sẽ ít bị nhiễm trùng tai, bệnh hô hấp và tiêu chảy hơn.

     Giảm nguy cơ mắc bệnh: Nghiên cứu cho thấy, trẻ bú sữa mẹ giúp giảm khả năng bị dị ứng và sâu răng, đồng thời phát triển xương hàm, răng, giọng nói, khuôn mặt tốt hơn. Đặc biệt, việc nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ đã được chứng minh là có khả năng bảo vệ trẻ khỏi nhiều bệnh tật bao gồm: Viêm tai giữa; bệnh về đường hô hấp; cảm lạnh; vi rút, nhiễm tụ cầu, strep và e coli; Dị ứng; rối loạn đường ruột; bệnh tiểu đường loại 2; một số bệnh ung thư thời thơ ấu…

      Giúp tăng cân: Trẻ sơ sinh bú sữa mẹ sẽ giúp tăng cân lành mạnh và tránh được nguy cơ thừa cân, béo phì. Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) cho biết, việc cho con bú sữa mẹ còn đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa SIDS (hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh).

    Giúp trẻ thông minh hơn: Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ có chỉ số IQ cao hơn trong thời thơ ấu. Điều này là do sữa mẹ giàu HMO, một thành phần giúp nuôi dưỡng hệ vi sinh đường ruột và mang đến cho trẻ hệ tiêu hóa khỏe mạnh. Khoa học đã chứng minh hệ tiêu hóa khỏe mạnh giúp tăng cường sự liên kết thần kinh, làm cho não hoạt động tốt hơn, từ đó trẻ thông minh hơn. Ngoài ra, sữa mẹ còn giàu DHA, thành phần quan trọng nhất cho sự phát triển trí não của trẻ.

     Giúp trẻ gần gũi với mẹ hơn: Mẹ cho con bú tạo ra sự gần gũi về thể chất, bao gồm việc tiếp xúc da thịt và giao tiếp bằng mắt. Điều này giúp tạo ra sự gắn kết, khiến bé gần gũi với mẹ hơn và mang đến cảm giác an tâm hơn cho trẻ.

  1. Đối với mẹ

        Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ không chỉ tốt nhất cho trẻ nhỏ mà còn mang đến nhiều lợi ích cho mẹ như:

     Giảm cân: Nghiên cứu chỉ ra rằng, việc cho con bú sẽ đốt cháy nhiều calo hơn, từ đó giúp phụ nữ giảm cân nhanh hơn.

       Giúp tử cung co lại: Thời kỳ mang thai, tử cung sẽ to ra để đáp ứng sự phát triển của thai nhi và dần co lại sau khi em bé ra đời. khi cho con bú, lượng hormone oxytocin trong cơ thể sẽ tăng cao. Oxytocin có tác dụng làm co thắt tử cung và giảm chảy máu, giúp tử cung trở lại kích thước trước đó.

      Giảm nguy cơ trầm cảm sau sinh: Trầm cảm sau sinh (PPD) có thể phát triển ngay sau khi sinh con. Phụ nữ cho con bú dường như ít bị trầm cảm sau sinh hơn so với những bà mẹ cai sữa sớm hoặc không nuôi con bằng sữa mẹ.

       Tăng sức đề kháng: Các nhà khoa học đã chứng minh, tổng thời gian phụ nữ cho con bú có liên quan mật thiết đến việc giảm nguy cơ ung thư vú và bệnh ung thư buồng trứng. Đồng thời, phụ nữ cho con bú ít có nguy cơ mắc phải các bệnh như huyết áp cao, viêm khớp, mỡ máu cao, tim mạch và tiểu đường tuýp 2.

          Hỗ trợ tránh thai tự nhiên: Mặc dù cho con bú sữa mẹ cũng là một trong những phương pháp ngừa thai nhưng hiệu quả của phương pháp này chỉ đảm bảo khi hội tụ ba yếu tố: trong 4 tháng đầu sau sinh; cho con bú mẹ hoàn toàn và mẹ không có kinh nguyệt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, mẹ mang thai trong thời gian cho con bú có thể xảy ra nên việc áp dụng một biện pháp ngừa thai phù hợp cũng cần thiết trong thời gian này.

          Cách khắc phục những khó khán thường gặp khi nuôi con bắng sữa mẹ

         Trong thực tế nuôi con bằng sữa mẹ sẽ thường gặp khó khăn ngậm bắt vú không tốt. Nghuyên nhân từ phía mẹ là không đủ sữa, nứt cổ gà, căng tức – tắc tia sữa, viêm tuyến vú – áp xe, núm vú phẳng – núm vú tụt. Từ phía con là trẻ không chịu bú, đau miệng (tưa miệng), ốm đau, ngạt mũi.

         Cách khắc phục những khó khăn thường gặp khi nuôi con bằng sữa mẹ: Nếu mẹ ít sữa cần ăn thức ăn lợi sữa; cần có sự động viên hỗ trợ từ gia đình, cho con bú nhiều hơn, bà mẹ cần tin nuôi con bằng sữa mẹ tốt, cho bú ngay sau sinh bú theo nhu cầu cả ngày lẫn đêm. Nếu vú mẹ nứt cổ gà bà mẹ cần giúp trẻ ngậm bắt vú đúng cách, không bôi gì lên đầu vú, lấy giọt sữa mẹ xoa nhẹ lên núm vú và quầng vú. Có thể trao đổi với cán bộ y tế địa phương  để được hướng dẫn giúp trẻ ngậm bắt vú bú đúng ngay từ bữa bú đầu tiên. Nếu bị căng tức tia sữa thì cần cho trẻ bú cả ngày lẫn đêm; có thể vắt, cho trẻ bú sớm khi vú chưa căng sữa. Nếu thấy hiện tượng cục sưng nóng và sốt thì đến khám tại trạm y tế, phòng tránh không để vú sưng cứng quá lâu. Cần làm thông tuyến sữa sớm; núm vú phằng và tụt cần kéo vê núm vú theo hướng dẫn cán bộ Y tế.

         Trong mọi trường hợp khó khăn, luôn luôn khuyên bà mẹ tiếp tục cho con bú nhiều hơn hoặc vắt sữa ra cho trẻ ăn bằng cốc. Không cho trẻ bú bình vì nếu cho trẻ bú bình sẽ khiến trẻ không thích bú mẹ trở lại nữa.

            Không nên cho bú mỗi bên một chút vì trong sữa mẹ có sữa đầu và sữa cuối. Sữa đầu là sữa đầu bữa bú, lượng nhiều, hơi trong xanh chứa nhiều nước, các chất dinh dưỡng như protein, đường, giúp trẻ đỡ khát. Sữa cuối là sữa cuối bữa bú, màu trắng đục hơn, chứa nhiều chất béo hơn và cung cấp nhiều năng lượng giúp trẻ tăng cân, phát triển tốt. Nếu trẻ bú mỗi bên một ít làm cho trẻ bú phần lớn sữa đầu, giúp trẻ đỡ khát chứ không giúp trẻ tăng cân, phát triển tốt. Do đó, cần cho trẻ bú hết một bên rồi mới chuyển bên khác giúp trẻ nhận được đầy đủ dưỡng chất trong cả 2 loại sữa.

           Phần lớn các vấn đề khó khăn khi nuôi con bằng sữa mẹ là do bà mẹ chưa biết cho trẻ bú đúng cách, bao gồm cả tư thế cho con bú đến cách cho con ngậm bắt vú tốt ngay từ bữa bú đầu tiên, hãy cho trẻ bú sớm và đúng từ bữa bú đầu tiên./.

                                                                                                                                        Tác giả bài viết: Phùng Thị Mai Loan- Khoa Chăm sóc sức khoẻ sinh sản và Phụ sản